Thực trạng phát triển thị trường tài chính xanh ở Việt Nam: Những thách thức và cơ hội

Tóm tắt: Việt Nam nhận thức được vai trò then chốt của tài chính xanh trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Ngiên cứu này cung cấp một cái nhìn tổng quan về bối cảnh tài chính xanh ở Việt Nam, nêu bật những tiến bộ, thách thức và cơ hội. Trong khi nền tảng thị trường tài chính xanh được thiết lập bởi tín dụng xanh và thị trường trái phiếu xanh, vẫn còn một số trở ngại cản trở tiềm năng phát triển của nó. Những trở ngại này bao gồm: còn thiếu việc phân loại xanh thống nhất, khung pháp lý chưa đầy đủ, nhận thức và chuyên môn kỹ thuật hạn chế, hạn chế tài chính và thiếu dữ liệu. Với sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, với sự quan tâm của nhà đầu tư, tiềm năng quan hệ đối tác công tư, sự hỗ trợ quốc tế và phát triển thị trường carbon sẽ mang lại cơ hội đáng kể cho việc mở rộng tài chính xanh ở Việt Nam. Giải quyết những thách thức này để khai thác sức mạnh chuyển đổi của tài chính xanh cho tương lai phát triển bền vững của Việt Nam.

Từ khóa: Tài chính xanh, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, tín dụng xanh, trái phiếu xanh.

Abstract Vietnam recognizes the pivotal role of green finance in achieving its sustainable development goals and is committed to achieving net zero emissions by 2050. This study provides an overview of the green finance landscape in Vietnam, highlighting progress, challenges and opportunities. While the foundations for the green finance market are established by the green credit and green bond markets, there are still a number of obstacles that hinder its potential development. These include: the lack of a unified green taxonomy, an inadequate regulatory framework, limited awareness and technical expertise, financial constraints and a lack of data. Strong government commitment, investor interest, potential for public-private partnerships, international support and carbon market development offer significant opportunities for the expansion of green finance in Vietnam. Addressing these challenges will help harness the transformative power of green finance for Vietnam’s sustainable future. 

Keywords: Green finance, green growth, sustainable development, green credit, green bonds.

Ngày nhận bài: 05/4/2025

Ngày phản biện: 05/5/2025

Ngày chính sửa: 15/5/2025

Ngày chấp nhận đăng bài: 16/5/2025

1.    Giới thiệu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và những thách thức môi trường ngày càng gia tăng, tài chính xanh đã nổi lên như một xu hướng quan trọng, thu hút sự quan tâm rộng rãi từ các nhà hoạch định chính sách, giới học thuật và cộng đồng doanh nghiệp (FEPBL, 2024). Khái niệm này thể hiện sự giao thoa giữa lĩnh vực tài chính với quản lý môi trường và thịnh vượng kinh tế, hướng dòng vốn đầu tư vào các hoạt động mang lại lợi ích cho môi trường, giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái và quản lý hiệu quả các rủi ro môi trường, qua đó thúc đẩy các ưu tiên phát triển bền vững. Tài chính xanh được xem là một công cụ then chốt trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế.

Nền tảng của tài chính xanh chính là triết lý phát triển bền vững, một cách tiếp cận cân bằng và toàn diện, bao gồm sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường (FEPBL, 2024; KPMG, 2023). Tài chính bền vững, một thuật ngữ rộng hơn, tích hợp các yếu tố về môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (Environmental, Social, and Governance - ESG) vào các quyết định và hoạt động tài chính nhằm hướng đến sự bền vững lâu dài (FEPBL, 2024; KPMG, 2023). Như vậy, tài chính bền vững bao hàm tài chính khí hậu, tài chính xanh và tài chính xã hội, thể hiện vai trò trung tâm của hệ thống tài chính trong việc thúc đẩy một nền kinh tế bền vững (FEPBL, 2024).

Tại Việt Nam, Chính phủ đã xác định tài chính xanh là một yếu tố then chốt để huy động nguồn vốn cần thiết cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế bền vững và đạt được mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 (FEPBL, 2024). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang tích cực triển khai các sáng kiến về ngân hàng xanh và tín dụng xanh, với việc ban hành Quyết định 1663/QĐ-NHNN năm 2024 nhằm tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động tín dụng xanh (NHNN, 2024). Bộ Tài chính cũng đang nỗ lực xây dựng khung pháp lý cho thị trường trái phiếu xanh và thúc đẩy tăng trưởng xanh thông qua các chính sách tài khóa (GIZ, 2023).

Theo Enerteam (2024) tài chính xanh được định nghĩa một cách ngắn gọn là "hỗ trợ tài chính hướng đến tăng trưởng xanh thông qua việc giảm phát thải khí nhà kính và ô nhiễm môi trường một cách hiệu quả và có ý nghĩa". Từ góc độ học thuật, tài chính xanh được hiểu là các hoạt động tài chính hỗ trợ các mục tiêu cải thiện môi trường, xóa đói giảm nghèo và các sáng kiến phát triển bền vững. Trong đó, tín dụng xanh được định nghĩa là sự hỗ trợ tài chính không gây ra tác động tiêu cực đến môi trường (Vũ và cộng sự, 2024; Zhang và cộng sự, 2023; Nguyễn và cộng sự, 2022; Lê & Nguyễn, 2021; Jin, 2010; Ledgerwood, 2013; ADB, 2013; OECD, n.d.; Luật Bảo vệ môi trường, 2020). Các hoạt động tài chính xanh bao gồm trái phiếu xanh được phát hành để tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo, giao thông công cộng thân thiện với môi trường, quản lý chất thải bền vững, và tín dụng xanh dành cho các doanh nghiệp thực hiện các giải pháp giảm phát thải.

Mặc dù có những bước tiến quan trọng, việc phát triển tài chính xanh ở Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm nguy cơ "tẩy xanh" (greenwashing), sự cần thiết phải xây dựng các tiêu chuẩn và quy định rõ ràng và nhất quán, cũng như việc đánh giá hiệu quả môi trường thực tế của các dự án tài chính xanh. Để đạt được tiềm năng to lớn của tài chính xanh trong việc thúc đẩy phát triển bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các tổ chức tài chính, doanh nghiệp, nhà đầu tư và cộng đồng.

2. Thực trạng thị trường tài chính xanh ở Việt Nam

Thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đã thiết lập sự hiện diện nền tảng với các hoạt động trong lĩnh vực tín dụng xanh và trái phiếu xanh (FEPBL, 2024). Tính đến hết năm 2024, có 47 tổ chức tài chính cung cấp tín dụng xanh, với dư nợ cho vay dành cho các dự án xanh đạt gần 637.000 tỷ đồng, khoảng 4,5% tổng dư nợ với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tín dụng xanh khoảng 22% trong giai đoạn 2017 – 2023 (NHNN, 2024).

Biểu đồ 1: Tổng tín dụng xanh của Việt Nam giai đoạn 2017 - 2024

bieudo-1758180356.png
(Nguồn: NHNN,2024)

Các lĩnh vực chủ chốt của tài chính xanh tại Việt Nam bao gồm năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và nông nghiệp xanh (FEPBL, 2024). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang tích cực thúc đẩy mở rộng tín dụng xanh và tích hợp quản lý rủi ro môi trường vào hoạt động cho vay, cho thấy định hướng rõ ràng của chính sách nhằm phát triển tài chính bền vững (NHNN, 2024). Hưởng ứng xu hướng này, nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam, tiêu biểu như BIDV, Agribank, Vietcombank, đã triển khai các gói ưu đãi riêng biệt để khuyến khích cho vay xanh, thể hiện cam kết ngày càng tăng của ngành tài chính (Báo Đầu tư - Vietnam Investment Review - VIR, 2024). Sự tăng trưởng mạnh mẽ của tín dụng xanh phản ánh nhận thức và sự áp dụng ngày càng sâu rộng các nguyên tắc tài chính bền vững từ cả các tổ chức tài chính và doanh nghiệp tại Việt Nam. Sự tham gia chủ động của nhiều ngân hàng trong việc cung cấp các sản phẩm tín dụng xanh tạo ra một môi trường cạnh tranh và cho thấy sự công nhận ngày càng lớn về tầm quan trọng của việc cho vay có trách nhiệm với môi trường

Hình 2: Tỷ trọng tín dụng xanh giữa các lĩnh vực

tindung-1758180406.png
(Nguồn: NHNN, 2024)

Việt Nam đã khẳng định vị thế là nước phát hành trái phiếu xanh lớn thứ hai trong ASEAN, với tổng giá trị đạt 1 tỷ USD (VIR, 2024). Tính đến năm 2021, tổng giá trị trái phiếu xanh, xã hội và bền vững được phát hành tại Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD (VIR, 2024). Trong giai đoạn từ 2019 đến 2023, tổng lượng trái phiếu xanh phát hành đã lên tới 1,157 tỷ USD (FEPBL, 2024; VIR, 2024). Ban đầu, thị trường trái phiếu xanh chủ yếu được dẫn dắt bởi chính phủ và chính quyền địa phương (VIR, 2024). Tuy nhiên, ngày càng có nhiều tổ chức tư nhân tham gia vào thị trường này, điển hình như Điện mặt trời Trung Nam và EVN Finance (VIR, 2024; Nhà đầu tư, 2024; Điện mặt trời Trung Nam, 2019; EVN Finance, 2022). Đáng chú ý, năm 2024, Vietcombank đã phát hành thành công 2.000 tỷ đồng trái phiếu xanh với sự hỗ trợ của GGGI (Vietcombank, 2024; GGGI, 2024). Trước đó, vào năm 2023, BIDV cũng đã tiên phong phát hành trái phiếu xanh cao cấp, không có bảo đảm và không có bảo lãnh, đánh dấu một bước tiến quan trọng của ngân hàng thương mại Việt Nam (BIDV, 2023).

Bảng 1: Một số tổ chức phát hành trái phiếu xanh tại Việt Nam

3-1758180406.png
(nguồn: Nguyễn, Phạm, 2025)

Bộ Tài chính có vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam (FEPBL, 2024). Bên cạnh đó, các công cụ tài chính bền vững khác như trái phiếu bền vững và các khoản vay liên kết với tính bền vững cũng đang dần trở nên phổ biến (VIR, 2024). Điển hình, BIDV đã phát hành trái phiếu bền vững đầu tiên của Việt Nam vào năm 2023 (BIDV, 2023). Trước đó, VPBank đã tiên phong giới thiệu các khoản vay liên kết bền vững vào năm 2022, trong đó lãi suất được điều chỉnh dựa trên hiệu suất ESG của người vay (VPBank, 2022).

3. Bối cảnh chính sách và quy định thúc đẩy tài chính xanh

Sự tiến bộ của tài chính xanh ở Việt Nam tuy bị ảnh hưởng bởi chính sách và quy định hỗ trợ, nhưng được Thủ tướng Chính phủ ban hành một số quyết định như: i) Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 (Quyết định số 403/QĐ-TTg, 2014); ii) Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn dài hạn kéo dài đến năm 2050 (Quyết định số 1658/QĐ-TTg, 2021). Bổ sung cho các chiến lược này, Bộ Tài chính đã vạch ra kế hoạch hành động để ngành tài chính đóng góp tích cực thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020 (Quyết định số 2183/QĐ-BTC, 2015). Những chính sách này thể hiện cam kết lâu dài của Chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh và có một khung chính sách toàn diện hướng dẫn sự phát triển của tài chính xanh ở Việt Nam. Cam kết lâu dài này gửi tín hiệu mạnh mẽ đến thị trường, khuyến khích đầu tư và đổi mới sáng kiến trong các sáng kiến xanh.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng đóng vai trò then chốt trong việc tích cực thúc đẩy ngân hàng xanh và tín dụng trong hệ thống tài chính của đất nước, như đã ban hành Đề án phát triển ngân hàng xanh vào năm 2018. Đây là một sáng kiến quan trọng nhằm lồng ghép về môi trường vào hoạt động của các tổ chức tín dụng (NHNN, 2018). Chương trình này yêu cầu xây dựng các hệ thống Quản lý rủi ro môi trường và xã hội (Environmental and social risk management - ESRM) và tích hợp đánh giá rủi ro môi trường và xã hội (Environmental and Social - E&S) vào quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng (NHNN, 2018). Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro E&S trong hoạt động cấp tín dụng, hướng dẫn và động lực cho các hoạt động cho vay bền vững (NHNN, 2018). NHNN cũng đã ban hành quyết định phác thảo Kế hoạch hành động cho ngành ngân hàng để thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, thể hiện cam kết, gắn kết ngành ngân hàng với các mục tiêu bền vững toàn cầu rộng lớn hơn (NHNN, 2018). Ngoài ra, NHNN đã xây dựng Sổ tay đánh giá rủi ro môi trường và xã hội cho các lĩnh vực cụ thể (The Investor, 2024). Gần đây, NHNN ban hành Quyết định số 1663/QĐ-NHNN, 2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 7/8/2018 của Thống đốc NHNN phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.nhằm thúc đẩy tiếp cận tín dụng xanh cho doanh nghiệp và thiết lập cơ sở pháp lý thống nhất để các tổ chức tín dụng thực hành tín dụng xanh (SVB, 2024). Ngoài ra, NHNN đã hợp tác với Ngân hàng Đầu tư Châu Âu (The European Investment Bank - EIB) thông qua chương trình Hệ thống tài chính xanh hóa (Greening the financial system - GFS) của EIB nhằm tăng cường hơn nữa năng lực quản lý rủi ro khí hậu và mở rộng phạm vi tài chính xanh tại Việt Nam (EIB, 2025a; EIB, 2025b). Những biện pháp chủ động này của NHNN khẳng đinh cam kết lồng ghép các nguyên tắc và thực tiễn tài chính xanh vào hoạt động cốt lõi của ngành ngân hàng Việt Nam.

Bộ Tài chính cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam (FEPBL, 2024). Bộ Tài chính đã phối hợp với các cơ quan liên quan để thiết lập một khung pháp lý toàn diện quản lý việc phát hành trái phiếu xanh, một bước quan trọng trong việc cung cấp sự rõ ràng và cấu trúc cho phân khúc thị trường mới nổi này (FEPBL, 2024). Nghị định số 95/2018/NĐ-CP quy định về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch được ban hành cho thấy Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trái phiếu xanh. Bộ Tài chính đã tích cực tham gia hợp tác quốc tế để thúc đẩy chương trình nghị sự tài chính xanh, bao gồm hợp tác với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tập trung vào chính sách tài chính xanh (GIZ, 2023). Để khuyến khích thị trường trái phiếu xanh, Bộ Tài chính đã đề xuất các ưu đãi về thuế cho cả tổ chức phát hành và người mua trái phiếu xanh (GIZ, 2023). Những động thái này thể hiện cam kết của Bộ Tài chính trong việc tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thị trường trái phiếu xanh, thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trái phiếu xanh, từ Chính phủ và chính quyền địa phương và có một số ưu đãi tài khóa để thu hút những người tham gia thị trường.

Bảng 2: Các chính sách và quy định chính liên quan đến tài chính xanh tại Việt Nam

untitled-1758180569.jpg
 

Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính cũng triển khai mạnh mẽ các hoạt động hợp tác với một số tổ chức uy tín trên thế giới nhằm hỗ trợ định hình bối cảnh chính sách và quy định cho tài chính xanh ở Việt Nam. Những hợp tác quốc tế này cung cấp cho Việt Nam khả năng tiếp cận với chuyên môn kỹ thuật có giá trị, hỗ trợ tài chính và hiểu biết sâu sắc về các thực tiễn tốt nhất toàn cầu, điều cần thiết cho sự phát triển và trưởng thành liên tục của lĩnh vực tài chính xanh.

Bảng 3: Danh sách một số tổ chức quốc tế tiêu biểu hợp tác với Việt Nam

untitleda-1758180660.jpg

 

4. Một số thách thức và rào cản đối với sự tiến bộ của tài chính xanh

Dù đã có những bước tiến trong việc xây dựng cơ chế cho tài chính xanh, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức và rào cản, gây trở ngại cho việc áp dụng rộng rãi và hiệu quả.

Một trong những rào cản lớn nhất là sự hạn chế về nhận thức, năng lực và chuyên môn kỹ thuật của các bên liên quan (VIR, 2024). Nhiều doanh nghiệp còn thiếu thông tin, chưa am hiểu đầy đủ về các cơ chế và công cụ tài chính xanh hiện hành (VIR, 2024). Mặt khác, các tổ chức tài chính cũng đối mặt với khó khăn trong việc đánh giá và quản lý rủi ro của các dự án xanh do thiếu hụt đội ngũ nhân sự có chuyên môn sâu (The Investor, 2024). Hơn nữa, sự hiểu biết chưa toàn diện về các yếu tố ESG đã và đang hạn chế cả nguồn cung và cầu đối với các sản phẩm tài chính xanh (The Investor, 2024). Việc nâng cao năng lực ESG cho đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt là các thành viên hội đồng quản trị, vẫn chưa được quan tâm đúng mức (ARC Group, 2024).

Bên cạnh đó, khung pháp lý hiện hành trong lĩnh vực tài chính xanh còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập (Hải quan Online, 2024). Còn thiếu các chính sách ưu đãi và cơ chế hỗ trợ cụ thể dành cho tín dụng xanh và trái phiếu xanh đang làm giảm động lực tham gia của các chủ thể trên thị trường (VIR, 2024; Nhà đầu tư, 2024). Bên cạnh đó, việc thực thi các quy định pháp luật còn thiếu nhất quán, cùng với chi phí tuân thủ cao, đã tạo ra rào cản đáng kể (VIR, 2024). Các bên liên quan cũng bày tỏ nhu cầu được cung cấp các hướng dẫn chi tiết và cụ thể hơn từ phía cơ quan quản lý nhà nước (VIR, 2024; Nhà đầu tư, 2024).

Một thách thức khác liên quan đến tính minh bạch của thị trường là chưa có một hệ thống phân loại xanh rõ ràng và thống nhất – tiêu chuẩn để xác định các dự án và tài sản bền vững về mặt môi trường (Reddal, 2024a; Reddal, 2024b). Các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc đánh giá chính xác và phân bổ nguồn vốn phù hợp cho các dự án thực sự mang lại lợi ích môi trường (VIR, 2024; Reddal, 2024a). Điều này làm gia tăng nguy cơ 'tẩy xanh' – khi các dự án được gán nhãn 'xanh' một cách không chính xác – gây tổn hại đến uy tín của thị trường tài chính xanh (The Investor, 2024; Reddal, 2024a). Mặt khác, việc thiếu một hệ thống phân loại xanh tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế cũng gây cản trở cho việc thu hút đầu tư nước ngoài (VIR, 2024; Reddal, 2024a).

Mặc dù ngân sách nhà nước (NSNN) sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thị trường tài chính xanh, song NSNN cũng đang có nhiều khó khăn. Trước hết, quy mô NSNN hiện nay vẫn còn hạn chế so với nhu cầu chi tiêu ngày càng gia tăng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam cần dành nguồn lực lớn cho y tế, giáo dục, an sinh xã hội và phục hồi kinh tế sau đại dịch. Việc cân đối giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển khiến không gian tài khóa cho các chương trình xanh còn eo hẹp. Ngoài ra, các dự án xanh thường đối mặt với những rào cản đáng kể về tài chính và kinh tế. Đặc thù của các dự án này là đòi hỏi nguồn vốn đầu tư ban đầu lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài và lợi nhuận kỳ vọng trong giai đoạn đầu có thể không cao (VIR, 2024). Điều này dẫn đến tâm lý e ngại của các nhà đầu tư về hiệu quả tài chính, đặc biệt là trong ngắn hạn (VIR, 2024). Cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam, với sự phụ thuộc lớn vào hệ thống ngân hàng trong khi thị trường vốn còn chưa phát triển, cũng hạn chế khả năng huy động vốn cho các dự án xanh (VIR, 2024). Các yếu tố kinh tế vĩ mô như giá điện được điều tiết ở mức thấp và những quan ngại về mức độ tín nhiệm của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng tạo ra những thách thức không nhỏ (ADB, 2024).

Trong bối cảnh này, NSNN được kỳ vọng sẽ hỗ trợ các dự án xanh bằng cách tài trợ một phần chi phí đầu tư, hỗ trợ lãi suất hoặc bảo lãnh tín dụng, qua đó giảm thiểu rủi ro tài chính và tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, cơ chế phân bổ ngân sách hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên tiêu chí hiệu quả kinh tế – tài chính ngắn hạn, trong khi nhiều dự án xanh có đặc điểm là thời gian hoàn vốn dài và lợi ích môi trường khó lượng hóa, dẫn đến chưa được ưu tiên đúng mức (GIZ, 2023). Sự thiếu đồng bộ giữa các chiến lược tăng trưởng xanh và quy trình lập ngân sách sẽ làm chậm quá trình lồng ghép tiêu chí xanh vào hoạt động tài chính công. Việc thiếu một hệ thống đo lường, báo cáo và kiểm toán chi tiêu công theo tiêu chí ESG cũng làm suy giảm tính minh bạch và hiệu quả của ngân sách xanh. Ngoài ra, nhiều địa phương vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng NSNN cho các dự án xanh do thiếu hướng dẫn cụ thể, năng lực triển khai hạn chế, cũng như vướng mắc trong cơ chế phân cấp tài chính. Cuối cùng, việc tận dụng vốn hỗ trợ quốc tế cho tài chính xanh cũng phụ thuộc vào khả năng huy động vốn đối ứng từ NSNN, trong khi điều kiện này thường gặp trở ngại do hạn chế về nguồn lực và quy trình phê duyệt phức tạp. Những thách thức nêu trên cho thấy, bản thân NSNN cũng cần được “xanh hóa” thông qua các cải cách tài khóa theo hướng bền vững, minh bạch và đồng bộ hơn với các chiến lược phát triển xanh quốc gia.

Cuối cùng, sự thiếu hụt dữ liệu đáng tin cậy và những khó khăn trong công tác xác minh đang là những trở ngại lớn đối với sự phát triển minh bạch và bền vững của thị trường tài chính xanh tại Việt Nam. Tình trạng khan hiếm dữ liệu cụ thể và xác thực liên quan đến các hoạt động tài chính xanh (VIR, 2024) gây cản trở cho việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI) trong lĩnh vực này (VIR, 2024). Bên cạnh đó, việc hạn chế về dữ liệu cũng gây khó khăn cho quá trình đánh giá và xác minh tín chỉ carbon một cách chính xác (VIR, 2024). Hơn nữa, việc thiếu thông tin về hiệu quả thực tế và tác động môi trường của các sáng kiến tài chính xanh cũng làm hạn chế khả năng thiết lập các tiêu chuẩn và đánh giá đúng mức độ thành công (VIR, 2024). Mức độ công bố thông tin ESG của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp so với các tiêu chuẩn quốc tế (ARC Group, 2024).

Để giải quyết những thách thức và rào cản này, đòi hỏi một chiến lược tổng thể và sự phối hợp hành động từ Chính phủ, các cơ quan quản lý, tổ chức tài chính, doanh nghiệp và các bên liên quan khác. Các giải pháp cần tập trung vào việc nâng cao nhận thức và năng lực, hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng hệ thống phân loại xanh, tháo gỡ các rào cản về tài chính và kinh tế, đồng thời cải thiện hệ thống dữ liệu và quy trình xác minh.

5. Cơ hội tăng trưởng và phát triển trong tài chính xanh

Bất chấp những thách thức hiện hữu nêu trên, Việt Nam vẫn là quốc gia có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính xanh.

Trước hết, xu hướng đầu tư bền vững ngày càng được ưa chuộng bởi các nhà đầu tư trên toàn cầu và tại Việt Nam (FEPBL, 2024). Các yếu ESG ngày càng đóng vai trò then chốt trong các quyết định đầu tư, phản ánh nhận thức về giá trị lâu dài và khả năng giảm thiểu rủi ro của loại hình đầu tư này. Nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm tài chính xanh, như trái phiếu xanh, đã tạo ra môi trường thuận lợi để Việt Nam thu hút nguồn vốn cho các dự án thân thiện với môi trường. Bằng cách đáp ứng các tiêu chuẩn ESG quốc tế, Việt Nam có thể tiếp cận được nguồn vốn đáng kể, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.

Cùng cam kết của Chính phủ trong việc đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, với các chính sách ưu tiên tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của tài chính xanh (FEPBL, 2024). Một kênh quan trọng khác để thúc đẩy tài chính xanh là hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Public - Private – Partnership - PPP). Thông qua việc sử dụng vốn nhà nước hoặc nguồn vốn của nhà đầu tư tư nhân để giảm thiểu rủi ro, mô hình PPP có thể thu hút các nhà đầu tư tư nhân đến với các dự án xanh (VIR, 2024). Để khai thác tối đa tiềm năng này, cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý và hướng dẫn rõ ràng cho việc triển khai PPP trong lĩnh vực tài chính xanh. Cơ chế PPP hiệu quả sẽ giúp huy động nguồn vốn đáng kể, đồng thời tận dụng được kinh nghiệm và năng lực chuyên môn của khu vực tư nhân, từ đó đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh. Trong bối cảnh này, nguồn vốn từ NSNN đóng vai trò đặc biệt quan trọng như một chất xúc tác chiến lược. NSNN không chỉ tài trợ một phần chi phí đầu tư, hỗ trợ lãi suất hay bảo lãnh tín dụng cho các dự án xanh, mà còn góp phần chia sẻ rủi ro ban đầu, tạo niềm tin và hấp dẫn khu vực tư nhân cùng tham gia đầu tư. Điển hình, trong khuôn khổ Chương trình Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP), NSNN được kỳ vọng đóng vai trò vốn đối ứng nhằm khơi thông nguồn lực quốc tế trị giá 15,5 tỷ USD (JETP, 2024). Đồng thời, NSNN cũng được sử dụng để đầu tư vào hạ tầng xanh, xây dựng hệ thống dữ liệu và thể chế, và nâng cao năng lực chuyên môn trong hệ sinh thái tài chính xanh (GIZ, 2023). Nhờ đó, NSNN không chỉ là nguồn lực tài chính thuần túy, mà còn là động lực dẫn dắt, định hình và lan tỏa thị trường tài chính xanh theo hướng ổn định và bền vững. 

Việc huy động các nguồn lực tài chính và hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế, ngân hàng phát triển và khu vực tư nhân toàn cầu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính xanh ở Việt Nam. Quan hệ đối tác chiến lược với các tổ chức như EIB, Ngân hàng Thế giới, GGGI, IFC, AFD và GIZ mang lại những hỗ trợ giá trị về kỹ thuật, tài chính, cũng như chia sẻ kinh nghiệm và thông lệ quốc tế tốt nhất. 

Thêm vào đó, phát triển thị trường carbon trong nước là một giải pháp quan trọng, tạo động lực tài chính để doanh nghiệp giảm phát thải. Kế hoạch thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon, dự kiến hoạt động chính thức vào năm 2028, là một bước tiến quan trọng (VIR, 2024). Tín chỉ carbon không chỉ thúc đẩy giảm phát thải mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế có cơ chế định giá carbon. Để thị trường carbon vận hành hiệu quả, cần hoàn thiện khung pháp lý và các quy định về giao dịch tín chỉ carbon. Việt Nam cũng có tiềm năng tạo nguồn thu từ việc bán tín chỉ carbon ra thị trường quốc tế. Một thị trường carbon được thiết kế tốt và vận hành hiệu quả sẽ góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy đầu tư tư nhân vào các dự án giảm phát thải.

Tận dụng hiệu quả những tiềm năng này sẽ giúp Việt Nam không chỉ đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững mà còn nâng cao vị thế trên trường quốc tế trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp đang diễn ra mạnh mẽ.

6. Một số khuyến nghị thúc đẩy tài chính xanh tại Việt Nam:

Dựa trên những phân tích về thách thức và cơ hội, tác giả đề xuất các khuyến nghị chính sách sau đây nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường tài chính xanh tại Việt Nam:

Thứ nhất, cần hoàn thiện khung pháp lý và thể chế cho tài chính xanh. Điều này bao gồm việc xây dựng và ban hành hệ thống phân loại xanh quốc gia rõ ràng, thống nhất, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và bối cảnh Việt Nam. Đồng thời, cần hoàn thiện khung pháp lý, bao gồm các chính sách ưu đãi cho tín dụng xanh, trái phiếu xanh, cơ chế hợp tác công tư (PPP), và thị trường carbon. Việc đảm bảo thực thi pháp luật nhất quán, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục và giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp là vô cùng quan trọng.

Thứ hai, cần đầu tư vào nâng cao nhận thức, năng lực và chuyên môn về tài chính xanh. Cần triển khai các chương trình đào tạo, nâng cao nhận thức về tài chính xanh và ESG cho tất cả các bên liên quan (doanh nghiệp, tổ chức tài chính, nhà đầu tư, cơ quan quản lý...). Việc phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn sâu về đánh giá, quản lý rủi ro và đầu tư vào các dự án xanh cũng cần được chú trọng.

Thứ ba, để đa dạng hóa nguồn tài chính, cần thúc đẩy phát triển thị trường vốn. Cần có các biện pháp khuyến khích thị trường cổ phiếu, trái phiếu phát triển, tạo thêm kênh huy động vốn cho các dự án xanh. Bên cạnh đó, cần triển khai các cơ chế tài chính sáng tạo, bao gồm các quỹ xanh, cơ chế tài chính ưu đãi, và các công cụ giảm thiểu rủi ro (bảo lãnh, bảo hiểm...). Việc giải quyết các thách thức kinh tế đặc thù của từng ngành, như giá điện đối với các dự án năng lượng tái tạo, cũng đóng vai trò quan trọng.

Thứ tư, để đảm bảo tính minh bạch và tin cậy, cần tăng cường hệ thống dữ liệu về tài chính xanh. Cần xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về tài chính xanh, đảm bảo tính đầy đủ, chính xác, cập nhật và dễ tiếp cận. Đồng thời, thiết lập các tiêu chuẩn báo cáo ESG bắt buộc, khuyến khích xác minh độc lập và công bố thông tin minh bạch. Việc ứng dụng công nghệ (như AI) để nâng cao hiệu quả thu thập, phân tích và quản lý dữ liệu cũng cần được đẩy mạnh.

Thứ năm, để tận dụng tối đa các nguồn lực, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Cần chủ động tham gia các sáng kiến, diễn đàn quốc tế về tài chính xanh và biến đổi khí hậu. Việc tăng cường hợp tác song phương và đa phương để tiếp cận nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quốc tế là rất cần thiết. Đồng thời, cần xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với các tổ chức tài chính quốc tế, các cơ quan phát triển và các quốc gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

7. Kết luận:

Bối cảnh tài chính xanh ở Việt Nam được đặc trưng bởi cả những phát triển đầy hứa hẹn và những thách thức. Các bước đi cơ bản được thực hiện trong việc thiết lập tín dụng xanh và thị trường trái phiếu xanh non trẻ, cùng với cam kết mạnh mẽ của chính phủ và sự quan tâm ngày càng tăng của nhà đầu tư, báo hiệu một quỹ đạo tích cực. Tuy nhiên, việc vượt qua các rào cản hiện có liên quan đến việc thiếu phân loại xanh thống nhất, khung pháp lý chưa đầy đủ, hạn chế năng lực, hạn chế tài chính và lỗ hổng dữ liệu là điều cần thiết để nhận ra tiềm năng đầy đủ của tài chính xanh trong việc thúc đẩy chương trình nghị sự phát triển bền vững của Việt Nam. Cơ hội tăng trưởng là đáng kể, đặc biệt là trong việc tận dụng sự hỗ trợ quốc tế, thúc đẩy quan hệ đối tác công tư và phát triển thị trường carbon mạnh mẽ. Bằng cách giải quyết chiến lược các thách thức đã xác định thông qua các can thiệp chính sách có mục tiêu, sáng kiến nâng cao năng lực và tạo ra một môi trường thị trường minh bạch và hỗ trợ, Việt Nam có thể khai thác sức mạnh chuyển đổi của tài chính xanh để đạt được các mục tiêu khí hậu đầy tham vọng và xây dựng một tương lai bền vững và bền vững cho nền kinh tế và xã hội.

Tài liệu tham khảo

Nghị định số 95/2018/NĐ-CP về trái phiếu xanh của chính quyền và chính quyền địa phương.
Quyết định số 403/QĐ-TTg. (2014). Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020.
Quyết định số 1658/QĐ-TTg. (2021). Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Quyết định số 2183/QĐ-BTC. (2015). Kế hoạch hành động cho ngành tài chính đóng góp vào Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020.
Quyết định số 1663/2024/QĐ-NHNN về xúc tiến tín dụng xanh.
ACB. (2024). ACB thúc đẩy các gói tín dụng xanh. https://www.acb.com.vn/en/individual/news/acb-promotes-green-credit-packages
ADB. (2013). Tài chính xanh: Hướng tới một định nghĩa. https://www.adb.org/sites/default/files/publication/42946/green-finance-definition.pdf
ADB. (2024). Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) Tháng Tư 2024: Biến đổi khí hậu ở Châu Á. https://www.adb.org/sites/default/files/publication/862746/ado2024.pdf
Ngân hàng nông nghiệp. (2024). Agribank tài trợ cho các dự án xanh. https://agribank.vn/en/ve-agribank/tin-tuc/agribank-funds-green-projects
Tập đoàn ARC. (2024). Báo cáo ESG Việt Nam: Tình trạng hiện tại và triển vọng tương lai. https://arcgroup.asia/insights/vietnam-esg-reporting-current-state-and-future-outlook/
ĐẤU THẦU (BIDV). (2023). BIDV tiên phong phát hành trái phiếu xanh và trái phiếu bền vững. https://bidv.com.vn/en/ve-bidv/tin-tuc/bidv-pioneers-in-issuing-green-bonds-and-sustainability-bonds
EIB. (2025a). EIB hỗ trợ Việt Nam 100 triệu EUR để xanh hóa hệ thống tài chính. https://www.eib.org/en/press/all/200-million-for-vietnam-energy-and-climate-action
EIB. (2025b). Xanh hóa hệ thống tài chính. https://www.eib.org/en/projects/initiatives/greening-financial-systems/index.htm
Enerteam. (2024). Tài chính xanh. https://enerteam.vn/en/green-finance/
EVN Finance. (2022). EVN Finance phát hành thành công trái phiếu xanh. https://www.evnfc.vn/en/news/evn-finance-successfully-issues-green-bonds
FEPBL. (2024). Tài chính xanh tại Việt Nam. https://fepbl.ueh.edu.vn/wp-content/uploads/2024/04/Green-Finance-in-Vietnam.pdf
GGGI. (2024). GGGI và Vietcombank hợp tác xây dựng khung trái phiếu xanh. 
GIZ. (2023). Dự án SHIFT: Cải thiện điều kiện tài trợ cho bảo vệ khí hậu và chuyển đổi năng lượng xanh ở Việt Nam. https://www.giz.de/en/worldwide/101869.html
Haiquan trực tuyến. (2024). Tài chính xanh: Dòng vốn để phát triển bền vững. https://haiquanonline.com.vn/green-finance-capital-flow-for-sustainable-development-39659.html
IFC. (2024). IFC và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước để tăng cường thị trường trái phiếu xanh. 
Nguyễn T Liên, Phạm H Hạnh (2025). Phát hành trái phiếu xanh tại Việt Nam – Tình hình và khuyến nghị, Tạp chí môi trường số 1/2025.
VIR (2024) Phát triển và thúc đẩy tài chính xanh cho Việt Nam. 

THS. NGUYỄN VĂN NAM, PHÒNG QUẢN LÝ KH&CN, 
THS. NGUYỄN HOÀNG HUY, PHÒNG KH-TC,
TRƯỜNG ĐH TC-NH HÀ NỘI